Theo báo cáo năm 2018 của Bộ Công Thương, vị trí trung bình của linh kiện trong toàn ngành ô tô Việt Nam là 7-10%. Con số này vẫn còn xa so với mục tiêu 40% được đề ra từ năm 2004. -Mức độ địa phương hóa của các thành phần tiếng Việt. Nguồn: Bộ Công Thương, Marklines. Đọc thêm – Mặc dù Việt Nam vẫn đang nỗ lực phát triển công nghiệp hỗ trợ, một yếu tố quan trọng trong việc chuyển dịch sang sản xuất ô tô trong nước, nhưng các nước trong khu vực (như Thái Lan và Indonesia) đã vượt 70% đến 80% trong năm 2019 .– –Việt Nam ở đâu?
Mức tiêu thụ ô tô mới hàng năm, sản xuất trong nước và sản xuất linh kiện và phụ tùng là ba yếu tố xác định ngành công nghiệp ô tô và có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Xét về doanh số và sản xuất trong nước, Việt Nam đứng thứ tư trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN). Nhưng xét về lĩnh vực sản xuất phụ trợ, Việt Nam đang ở vị thế thấp hơn.
Đối với sản xuất trong nước phải có công nghiệp hỗ trợ mạnh và thị trường tăng trưởng ổn định. Về tốc độ tăng trưởng doanh số, Việt Nam đứng đầu khu vực ASEAN, chỉ đứng sau Myanmar. Tuy nhiên, công nghiệp phụ trợ kém và ít nhà cung cấp linh kiện đồng nghĩa với việc sản xuất ô tô trong nước chủ yếu dừng lại ở việc lắp ráp linh kiện nhập khẩu. Giá phụ tùng nhập khẩu cao tạo nên nghịch lý cho xe lắp ráp trong nước, thậm chí còn đắt hơn xe nhập khẩu.
Theo Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), trong cơ cấu sản xuất ô tô gia đình (CKD), các công ty thành viên hiện sử dụng khoảng 15% linh kiện sản xuất trong nước, thuộc “Loại 1”, thuộc nhóm thấp Các bộ phận kỹ thuật, chẳng hạn như ghế và cụm dây. .., số còn lại được nhập khẩu. Thái Lan và Indonesia chỉ nhập khẩu 10% ô tô, và trong “danh mục thứ tư”, nhóm linh kiện bao gồm động cơ và hộp số thể hiện giá trị lớn nhất của xe.
So với Thái Lan và Indonesia về cơ cấu sản xuất các dòng xe và tỷ lệ nội địa hóa ở Việt Nam. Ảnh: VAMA
Quy mô tiêu thụ ô tô mới và việc nội địa hóa rộng rãi các bộ phận giúp ngành công nghiệp ô tô ở Thái Lan và Indonesia giảm chi phí khấu hao và phụ tùng. Xe ô tô của hai quốc gia này không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn được xuất khẩu sang các nước khác. Sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô đã tạo điều kiện cho các nhà cung cấp linh kiện tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng, và số lượng của họ cũng ngày càng tăng. Năm 2018, Thái Lan có gần 2.100 nhà cung cấp phụ tùng và Việt Nam chỉ có 276 nhà cung cấp phụ tùng. – – Giám đốc hoạch định chiến lược của một nhà sản xuất ô tô Nhật Bản tại Việt Nam cho biết, ngay cả một bộ phụ tùng cũng được nhập khẩu trong nước (CKD) Các linh kiện lắp ráp trên ô tô thậm chí còn cao hơn ô tô nhập khẩu nguyên chiếc (CBU). Ông nói: “Nếu không tính đến chiến lược kinh doanh dài hạn, đặc biệt là cung cấp xe bán chạy, đương nhiên sẽ chọn nhập khẩu hơn là tăng giá”
Theo tính toán của các chuyên gia, giá thành sản xuất ô tô của Việt Nam cao hơn nước ngoài từ 15 đến 15. 20%. Khi sản xuất tại Thái Lan, giá của một nắp bồn nước bằng thép có dán tem là 1,5 USD, còn khi sản xuất tại Việt Nam là 3,8 USD. Mặc dù chưa thể giảm chi phí sản xuất các linh kiện cấp thấp (linh kiện công nghệ thấp, chiếm một phần nhỏ trong cơ cấu giá xe), nhưng đối với các linh kiện cao cấp thì khó có thể làm được. Như thùng xe, linh kiện điện tử, động cơ, hộp số,… do yêu cầu kỹ thuật nên chi phí đầu tư và chất lượng nguyên, vật liệu cao. Hiện tại, các công ty ở Việt Nam chưa hình thành mạnh mẽ lĩnh vực sản xuất trong nước, thiếu kết nối và thiết lập mạng lưới nhà cung cấp đủ lớn. Nhập khẩu ô tô để bán và nhập khẩu linh kiện để lắp ráp không giải quyết được vấn đề kích thích sản xuất trong nước mà đòi hỏi số lượng nhà cung cấp phụ tùng chính hãng và chất lượng sản phẩm. – Nguyên nhân do thị trường nhỏ, ngành công nghiệp phụ trợ không thu hút được nhà đầu tư tham gia sản xuất khiến trách nhiệm của các hãng xe bị “bắt chước” Nhưng khi ông Chính chủ trương các chính sách khuyến khích sản xuất trong nước thì việc thay đổi doanh nghiệp là cần thiết hơn bao giờ hết. – Đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ kinh doanh -Năm 2019, 6 trong số 10 mẫu xe trong nước có doanh số bán cao nhất là các mẫu xe lắp ráp trong nước. Toyota Fortuner, Mitsubishi Xpander và Honda CR-V là xe nhập khẩu nhưng sẽ được lắp ráp tại Trung Quốc từ nửa cuối năm 2020. Các công ty máy tính chiến lược phải điều chỉnh hướng kinh doanh của mình để tránh thụ động nhận được ngày càng nhiều sự hỗ trợ của chính phủ trong một nền chính trị ưu tiên sản xuất quốc gia.
Tại nhà máy lắp ráp ô tô Thaco tại Chu Lai, Quảng Nam.
Quy định của Chính phủ số 57/2020 ngày 10 tháng 7, các bộ phận, thành phần, vật liệu hoặc ngàyNguyên liệu nhập khẩu từ trong nước chưa sản xuất được để sản xuất, lắp ráp ô tô được hưởng thuế suất ưu đãi 0%. Các công ty lớn như Toyota, TC Motors và Trường Hải đã bãi bỏ yêu cầu ít nhất 8.000 xe ô tô thông thường và các mẫu xe hứa hẹn ít nhất 3.000 xe theo Nghị định số 127/2017 trước đó. .
Trọng tâm của các biện pháp khuyến khích chính phủ nêu trên là thành phần “cấp 2” trở lên để khuyến khích các nhà sản xuất xe tăng đầu tư vào sản xuất trong nước, nhưng không thể thành lập các ngành công nghiệp hỗ trợ. sự phát triển của. Phần còn lại cần các hãng xe và nhà cung cấp tham gia, vì mục tiêu cuối cùng là sản xuất trong nước chứ không phải lắp ráp linh kiện nhập khẩu. Người đứng đầu bộ phận truyền thông và kinh doanh của liên doanh Nhật Bản cho biết, khi thuế nhập khẩu về 0%, giá linh kiện về nước sản xuất tại Việt Nam cũng sẽ tăng do phải chịu thêm chi phí vận chuyển và lưu kho. Theo VAMA, chi phí vận chuyển (bao gồm cả đóng gói) chiếm khoảng 20% đến 30% giá trị linh kiện. động cơ. Công ty đã thành lập dự án Khu công nghiệp hỗ trợ ô tô Thành Công Việt Hưng trên diện tích 340 ha tại thành phố Quảng Ninh vào ngày 22 tháng 9. Một đại diện của công ty ô tô tại Ninh Bình cho biết Cela Park sẽ được quy tụ để hỗ trợ ô tô. Nhiều công ty trong ngành sản xuất các bộ phận và phụ tùng, đặc biệt là các bộ phận và bộ phận công nghệ cao. Công ty rõ ràng có ý định tích cực cung cấp các bộ phận để lắp ráp Hyundai Motor tại Việt Nam. Các dòng xe du lịch thương hiệu Hàn Quốc do TC Motor phân phối đang là dòng xe bán chạy nhất thị trường trong 10 tháng qua và đều là sản phẩm lắp ráp.
Nằm trong góc nhà máy VinFast tại Hải Phòng. Ảnh: VinFast
Cạnh thành phố Quảng Ninh là tổ hợp nhà máy sản xuất ô tô, xe máy, xe điện của công ty ô tô Việt Nam VinFast, tọa lạc tại Khu công nghiệp Đình Vũ – Cát Hải (Hải Phòng). Nhà máy VinFast chiếm khoảng 30% tổng diện tích 335 ha để sản xuất linh kiện và phụ tùng ô tô, xe máy. Ngoài việc tự đầu tư, công ty còn kêu gọi các công ty khác cung cấp vốn để liên doanh hoặc các nhà đầu tư cung cấp công nghệ, hạ tầng, máy móc, thiết bị cho công ty đầu tư. Một hình thức khác là doanh nghiệp đầu tư vốn, là nhà máy cung cấp các công trình nhà xưởng.
Ngoài TC motor VinFast, “kiềng ba chân” ưu tiên lắp ráp xe gia đình là Trường Hải (Thaco). Nó cũng đã đầu tư rất nhiều vào các ngành công nghiệp phụ trợ. Công ty cho biết họ hiện có 12 nhà máy hỗ trợ trong Khu công nghiệp Zhulai-Quảng Nam rộng 1.200 ha. Sản phẩm bao gồm các thành phần bên trong và bên ngoài của xe buýt, xe tải và xe ô tô; các thành phần composite; kính ô tô tải lạnh, xe buýt và xe khách; cản xe khách; ghế và áo ghế; bộ chỉ; nhíp; thân và các bộ phận thân xe …
Sở hữu 2 thương hiệu chính là Kia, Mazda và Thaco, hiện là hãng xe lắp ráp lớn thứ 2 sau TC Motor. Tham vọng của tập đoàn là trở thành nhà cung cấp linh kiện chính hãng (OEM), không chỉ cho sản xuất trong nước, theo Tổng cục Hải quan, tổng trị giá linh kiện ô tô và các doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam năm 2019 đạt 4,16 tỷ đô la Mỹ, 9 tháng đầu năm 2020 là 26,6. Một trăm triệu đô la Mỹ. Có vẻ như “miếng bánh” tỷ đô này bị các công ty trong nước làm ngơ, hoặc không muốn bỏ qua nhưng nếu không có sự “bất lực” của các đơn vị lớn trong ngành