Lịch sử truyền máu bắt đầu từ những năm 1600, khi nhà khoa học người Anh William Harvey phát hiện ra rằng máu lưu thông qua tim chứ không phải phổi. Được trang bị những kiến ​​thức này, các bác sĩ tin rằng truyền máu có thể giúp điều trị nhiều loại bệnh lý, chẳng hạn như xuất huyết sau sinh và thậm chí cả bệnh tâm thần. Trong thời gian này, lần truyền máu đầu tiên đã được thực hiện nhưng hầu hết các lần truyền máu đều thất bại và người nhận đã tử vong.

Các bác sĩ Anh và Mỹ cũng đã tiến hành các xét nghiệm truyền máu. Máu giữa các loài động vật. Năm 1666, lần truyền máu đầu tiên giữa các loài động vật đã thành công.

Năm 1667, bác sĩ người Pháp Jean-Baptiste Denis đã cung cấp 350 ml máu cừu cho một cậu bé 16 tuổi bị mất máu nặng. Sau khi được truyền máu, sức khỏe cậu bé ổn định hơn, Jean cho biết phương pháp truyền máu của cậu bé rất hiệu quả. Tất nhiên máu người và máu cừu là không hợp nhau, do không được truyền máu cừu nên cậu bé may mắn sống sót.

Jean-Baptiste Denis truyền máu cừu cho bệnh nhân. Ảnh: Sutori

Ngay sau “thành công” của lần truyền máu đầu tiên, Jean tiếp tục thực hiện ca truyền bê cho nam bệnh nhân mắc bệnh tâm thần. Ông cho rằng nam bệnh nhân máu kém nên được thay máu. Nếu được truyền máu từ một con vật hiền lành như bê, người bệnh tâm thần sẽ không còn những hành vi, thái độ khác lạ.

Tuy nhiên, sau ba lần truyền máu, bệnh nhân sẽ bị vã mồ hôi, nóng ran tay và da dưới cánh tay, có triệu chứng thận hư, nước tiểu sẫm màu và thậm chí tử vong. Truyền máu bị cấm trên toàn nước Pháp. Các bác sĩ và nhà nghiên cứu cũng đã ngừng truyền máu hoàn toàn cho đến thế kỷ 19.

Vào những năm 1800, Tiến sĩ James Blundell phát hiện ra rằng máu chỉ có thể truyền giữa các động vật cùng loài. Năm 1818, ông đã cứu sống một người phụ nữ bị băng huyết do chồng truyền máu. Trong khoảng thời gian này, anh cũng đã thực hiện 10 lần truyền máu khác nhưng nhận thấy tỷ lệ thành công không cao và rất may mắn. Mặc dù một số bệnh nhân hồi phục nhanh chóng sau khi truyền máu, những người khác tử vong trong vài ngày.

Nhà khoa học Karl Landsteiner đã được trao giải Nobel Y học năm 1930 sau khi phát hiện ra nhóm máu. Ảnh: Ấn Độ ngày nay-Năm 1901, nhà khoa học người Áo Karl Landsteiner phát hiện ra rằng con người có ba nhóm A, B và O được phân loại theo sức đề kháng, đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử y học. Nó được cho là có trên bề mặt của các tế bào hồng cầu. Lúc này, các nhà khoa học mới nhận ra rằng cái chết trước đó là do truyền máu không tương thích dẫn đến đông máu dẫn đến tử vong. Việc truyền máu đúng cách là rất quan trọng. Karl Landsteiner đã mở ra một hướng đi mới trong lĩnh vực huyết học, và nguy cơ tử vong khi truyền dịch gần như biến mất.

Năm 1916, Oswald Robertson (Oswald Robertson) người Mỹ đã chứng minh rằng máu có thể được lưu trữ, sau khi làm lạnh, số lần truyền máu tăng lên rất nhiều. Trong những năm 1940, hàng trăm ca truyền máu được thực hiện mỗi ngày và số lượng ngân hàng máu ngày càng tăng. Để ghi nhận những đóng góp to lớn của ông cho nền y học, Karl Landsteiner đã được trao giải Nobel Y học năm 1930.